• Quảng cáo: 0246.265.2654
Tiếng Việt
English
logo
ĐOÀN KẾT - NGHĨA TÌNH - TRÁCH NHIỆM - VÌ NẠN NHÂN CHẤT ĐỘC DA CAM

Bảo đảm tốt chính sách cho người có công, tạo tiềm lực chính trị, tinh thần trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân

Bảo đảm tốt chính sách cho người có công, tạo tiềm lực chính trị, tinh thần trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân

Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, hiện nay cả nước có khoảng 9 triệu người có công với cách mạng (trong đó có gần 1,2 triệu liệt sĩ, trên 127 nghìn Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, hơn 2 triệu người là thương binh, bệnh binh, hàng triệu người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học...). Hiện có 4 Pháp lệnh, 4 Nghị định, 22 Thông tư và Thông tư liên tịch, 13 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ đang còn hiệu lực thi hành nhằm giải quyết chế độ, chính sách đối với người có công (NCC). Hệ thống văn bản Pháp luật về ưu đãi NCC hiện hành đã đáp ứng và cơ bản thể chế hóa được các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với NCC, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia tích cực vào việc Đền ơn đáp nghĩa, chăm lo, trợ giúp NCC và tạo điều kiện để NCC tiếp tục vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống.

Cán bộ, chiến sỹ Huyện đội Sông Lô thăm hỏi, động viên người có công

Tuy nhiên, quá trình thực hiện Pháp lệnh ưu đãi NCC với cách mạng và các chính sách ưu đãi đối với NCC đã bộc lộ những hạn chế, bất cập; tạo những kẽ hở để kẻ xấu lợi dụng, kích động lôi kéo một số cựu chiến binh, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học… tham gia biểu tình, gây rối. Cụ thể là: khái niệm về các diện đối tượng NCC chưa được làm rõ về điều kiện, tiêu chí mức độ cống hiến, đóng góp, hy sinh; chưa quy định cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận người hoạt động cách mạng trước ngày 1-1-1945, người hoạt động cách mạng từ ngày 1-1-1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; chưa có khái niệm chung thế nào là “NCC với cách mạng”. Do các quy định còn chưa rõ ràng, thời gian qua, đã có nhiều trường hợp khai man, gian lận, làm giả hồ sơ NCC để “trục lợi” chính sách ưu đãi; những người không đúng đối tượng vẫn được hưởng chính sách, những người đúng đối tượng nhưng lại chưa được giải quyết do thiếu hồ sơ, giấy tờ gây bức xúc trong dư luận xã hội, phát sinh tình trạng đơn thư, khiếu nại, tố cáo. Một số quy định của pháp luật đã tạo “kẽ hở” cho các đối tượng lợi dụng thực hiện hành vi hối lộ, tham nhũng, làm sai, làm giả hồ sơ vi phạm pháp luật, gây bức xúc trong nhân dân. Chưa có quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận là người hoạt động cách mạng trước ngày 1-1-1945; người hoạt động cách mạng từ ngày 1-1-1945 đến Ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày: mới chỉ giới hạn trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ, chưa giải quyết chế độ đối với người bị địch bắt tù sau ngày 30-4-1975 tại chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ... Quy định của Pháp lệnh về điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận liệt sĩ, thương binh, bệnh binh trong thời chiến quá hẹp và ngược lại điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận bệnh binh trong thời bình quá rộng, không còn phù hợp thực tiễn. Từ đó dẫn đến tình trạng thiếu công bằng, chưa hợp lý trong việc công nhận và trong việc thực hiện chính sách ưu đãi NCC. Ngoài ra, một số quy định về chế độ ưu đãi NCC với cách mạng và thân nhân của NCC chưa bảo đảm cân đối giữa các diện đối tượng...

Chính vì vậy, việc quan tâm chăm lo thực hiện tốt chính sách NCC trong bối cảnh, tình hình hiện nay thực chất là giải pháp cơ bản nhằm tạo sự ổn định chung của xã hội, sự đồng thuận chung của nhân dân đối với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Để làm tốt những vấn đề trên, cần chú trọng thực hiện những nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ ưu đãi xã hội đối với người có công với cách mạng, hoàn chỉnh hành lang pháp lý trong lĩnh vực này. Trước mắt cần:

- Thể chế hoá đầy đủ các qui định về xác nhận NCC (sửa đổi, bổ sung một số căn cứ xác nhận đối với người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945, người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 còn sống và người đã hy sinh, từ trần; Sửa đổi, bổ sung đối tượng được xem xét xác nhận liệt sĩ, thương binh, người bị nhiễm chất độc da cam/dioxin…).

- Điều chỉnh chế độ trợ cấp ưu đãi trên cơ sở mức tiêu dùng bình quân xã hội; triển khai thực hiện đồng bộ các chế độ ưu đãi về kinh tế - xã hội nhằm nâng cao mức sống NCC để bản thân và gia đình họ có mức sống trên mức trung bình của xã hội (Bổ sung chế độ mua BHYT đối với vợ hoặc chồng liệt sĩ lấy chồng hoặc lấy vợ khác; chế độ trợ cấp một lần đối với thân nhân của người có đủ điều kiện công nhận là người có công giúp đỡ cách mạng đã chết mà chưa được hưởng chế độ ưu đãi; quy định về việc ủy quyền đi thăm viếng, di chuyển mộ liệt sỹ đối với thân nhân, gia đình liệt sĩ; chế độ trợ cấp đối với NNCĐDC thế hệ thứ ba và chế độ trợ cấp đối với người phục vụ 2 nạn nhân trở lên không tự phục vụ được…).

Hai là, tăng cường xã hội hóa, đẩy mạnh phong trào chăm sóc NCC thông qua các chương trình tình nghĩa, toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa nhằm huy động nguồn lực từ cộng đồng, xã hội cùng Nhà nước quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần NCC. Thông qua các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chương trình quốc gia về giáo dục nghề nghiệp, việc làm, giảm nghèo… tạo điều kiện cho bản thân NCC và gia đình họ (đặc biệt là con của họ) học tập, học nghề, tạo việc làm, phát triển về kinh tế nhằm ổn định, nâng cao đời sống gia đình, đồng thời góp phần phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính nhanh chóng, giảm phiền hà cho đối tượng chính sách nhưng vẫn bảo đảm chính xác, đầy đủ và minh bạch về chế độ thụ hưởng của người có công. Tổ chức, sắp xếp lại bộ máy quản lý trong lĩnh vực NCC từ khâu nghiên cứu, quản lý chỉ đạo đến tổ chức thực hiện. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp với yêu cầu công việc; đồng thời rà soát, bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao chất lượng, trình độ của đội ngũ cán bộ cả về đạo đức và năng lực trong lĩnh vực công tác người có công. Tăng cường thanh tra, kiểm tra thường xuyên công tác xác nhận và thực hiện chế độ ưu đãi đối với NCC. Phát hiện và giải quyết dứt điểm các vi phạm chính sách ưu đãi NCC để tạo sự đồng thuận xã hội cao, tập trung trọng tâm giải quyết những trường hợp đối tượng người thực sự có công còn tồn đọng vì nhiều lý do, nhất là những người do chiến tranh, thiên tai hay vì những lý do đặc biệt mà thất lạc, mất mát hồ sơ, chứng nhận cần thiết nên vẫn chịu sự thiệt thòi.

Ba là, đổi mới quản lý Nhà nước về ưu đãi xã hội, chú trọng cả 3 nội dung thể chế chính sách, tổ chức bộ máy và công chức, công vụ. Chú trọng việc cải cách thủ tục hành chính nhằm giảm phiền hà cho đối tượng chính sách nhưng vẫn đảm bảo chính xác; tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định về thủ tục hồ sơ xác nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh và về công tác quản lý các chế độ, quản lý đối tượng. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là trong thế hệ trẻ, nhằm nâng cao nhận thức về công tác chăm sóc người có công với cách mạng. Luôn coi việc chăm sóc NCC vừa là tình cảm, vừa là trách nhiệm cao quý, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với công lao hy sinh to lớn của các anh hùng liệt sĩ và NCC với cách mạng đã xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Bốn là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kịp thời và sâu rộng các văn bản quy định về chính sách ưu đãi NCC; phát huy dân chủ và công khai trong việc thực hiện chính sách. Tăng cường thanh tra, kiểm tra thường xuyên công tác xác nhận và thực hiện chế độ ưu đãi đối với NCC, phát hiện vi phạm đến đâu giải quyết dứt điểm đến đó, tập trung vào những đối tượng người có công còn tồn đọng. Xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm, tham ô. Tăng niềm tin, sự tôn vinh, lòng biết ơn của xã hội đối với người có công với nước. Tổ chức, sắp xếp bộ máy quản lý Nhà nước trong lĩnh vực người có công từ khâu nghiên cứu, quản lý chỉ đạo đến tổ chức thực hiện với cơ sở vật chất, trang thiết bị tương xứng với yêu cầu của công việc, đồng thời nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ cả về đạo đức và năng lực.

Năm là, kịp thời phát hiện những đối tượng xấu xúi giục, kích động NCC tham gia biểu tình, bạo loạn, gây rối trật tự, an ninh an toàn xã hội… trong cộng đồng dân cư, nhằm giáo dục, động viên mọi người đấu tranh vạch mặt kẻ xấu, bảo vệ danh dự, uy tín và hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, giữ vững sự ổn định về chính trị tinh thần trong xã hội. Tạo sự đồng thuận thống nhất cao về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với các đối tượng chính sách nói chung và NCC nói riêng.

Hoàn thiện pháp luật ưu đãi NCC sẽ tăng cường hiệu quả của chế độ ưu đãi với mục tiêu quan tâm, chăm lo nhiều hơn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đối tượng chính sách, tạo điều kiện cho việc thực hiện công bằng xã hội, đúng theo nguyên tắc đã được ghi nhận trong Cương lĩnh xây dựng đất nước: “Không chờ kinh tế phát triển cao mới giải quyết các vấn đề xã hội mà ngay trong từng bước, trong suốt quá trình phát triển tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội”. Đây là điều kiện tiên quyết để xây dựng niềm tin của nhân dân, nhất là người có công với cách mạng trong xây dựng tiềm lực quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân trong giai đoạn hiện nay.

Trung tướng PGS, TS Đặng Nam Điền

Bình luận

Gửi bình luận
Bình luận

    Tin khác