Từ năm 1961 đến 1971, quân đội Mỹ đã tiến hành 19.905 phi vụ phun rải khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học (trong đó 61% là chất da cam chứa khoảng 366 kg dioxin) xuống hơn 26.000 thôn, bản, trên diện tích 3,06 triệu ha – tương đương 1/4 diện tích miền Nam Việt Nam. Trong số đó, 86% diện tích bị phun rải ít nhất 2 lần, 11% bị rải hơn 10 lần, vượt 17 lần mức cho phép sử dụng trong nông nghiệp.
Đây là cuộc chiến tranh hóa học có quy mô lớn nhất, thời gian dài nhất và hậu quả thảm khốc nhất trong lịch sử nhân loại. Hơn 3 triệu ha rừng của các vùng Nam Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ bị tàn phá. Môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, hệ sinh thái đảo lộn, nhiều loài động thực vật quý hiếm bị tuyệt chủng.
Tại thành phố Huế, nhiều khu vực từng bị phun rải chất độc hóa học, đặc biệt là huyện A Lưới. Chỉ trong giai đoạn 1965–1967, khu vực này đã hứng chịu khoảng 434.812 gallon chất da cam, với điểm nhiễm nặng nhất là quanh sân bay A So – nơi từng là kho dự trữ hóa chất để phục vụ các phi vụ phun rải khác.
Chất độc da cam/dioxin đã làm hơn 4,8 triệu người Việt Nam bị phơi nhiễm, trong đó có trên 3 triệu người là nạn nhân. Nghiên cứu khoa học cho thấy dioxin gây tổn thương trên hầu hết các hệ cơ quan sinh lý: tiêu hóa, hô hấp, tuần hoàn, nội tiết, thần kinh; có thể gây ung thư, tổn thương gan, tuyến giáp, đái tháo đường typ 2; gây đột biến gen và di truyền qua nhiều thế hệ.
Liên Bộ Y tế – LĐ-TB&XH trước đây đã công nhận 17 loại bệnh, tật, dị dạng, dị tật do phơi nhiễm dioxin, như: ung thư phổi, thanh quản, tiền liệt tuyến, gan, phần mềm, bệnh đau tủy xương ác tính, bất thường sinh sản...
Nỗi đau ấy không chỉ dừng lại ở thể xác, mà còn là những bi kịch kéo dài qua nhiều thế hệ trong từng gia đình nạn nhân. Dưới đây là hai gia đình có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt:
Gia đình ông Nguyễn Cải và bà Lương Thị Cước, xã Quảng Điền: Hai vợ chồng đều là nạn nhân chất độc da cam; ba người con, trong đó hai con gái bình thường, còn người con trai năm nay 40 tuổi chỉ nặng khoảng 15 kg, chân tay co quắp, đầu nghiêng, không thể tự vận động, mắt mờ, tai điếc. Cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc của cha mẹ già suốt hơn bốn mươi năm qua.
Gia đình ông Phạm Đức Thịnh bà Phạm Thị Loan, ở số 83 Sóng Hồng, phường Phú Bài: Ông Thịnh, là nạn nhân chất độc da cam đã qua đời. Trong ba người con, chỉ có người con cả không bị dị tật nhưng lại hiếm muộn. Hai người con còn lại đều bị câm, điếc. Con trai câm lấy vợ, sinh một cháu nội thì cháu cũng bị dị tật tương tự. Con gái út ngoài 34 tuổi, chưa lập gia đình, sống cùng cha mẹ và cháu trong cảnh ba thế hệ mang gánh nặng da cam.
Cháu nội của ông bà Thịnh Loan do di chứng của chất độc da cam/dioxin bị dị tật bẩm sinh
Những hoàn cảnh kể trên chỉ là vài trường hợp trong số 17.700 người bị phơi nhiễm chất độc da cam/dioxin của thành phố Huế. Nỗi đau da cam là một bi kịch thầm lặng, chỉ những người trong cuộc mới thực sự thấu hiểu những mất mát, thiệt thòi mà họ và gia đình phải gánh chịu.
Thấu hiểu nỗi đau ấy, năm 2004, hệ thống Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố, huyện, quận và xã, phường đã được thành lập theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhiều chủ trương và chính sách ưu đãi đã được ban hành.
Hỗ trợ, tặng quà cho nạn nhân chất độc da cam
Trao tiền hỗ trợ sửa nhà cho nạn nhân chất độc da cam
Từ những chủ trương, chính sách được ban hành, tại thành phố Huế, sau 10 năm thực hiện Chỉ thị 43-CT/TW, các cấp Hội vận động được trên 11 tỷ đồng đã Hỗ trợ, tặng quà cho 27.218 lượt nạn nhân (ảnh dưới 1); làm mới 33 ngôi nhà (trên 2 tỷ đồng); sửa chữa 45 ngôi nhà (gần 575 triệu đồng); cho 32 hộ vay vốn không lãi suất (với tổng số tiền là 200 triệu đồng).
Nguyễn Hữu Quyết
Phó Chủ tịch Thành hội Huế
Bình luận