Phó Chủ tịch - Tổng thư ký: PGS, TS Trần Xuân Thu thăm nạn nhân chất độc da cam (tháng 8/2012)
Thiếu tướng, PGS, TS, VS Trần Xuân Thu sinh ngày 10/6/1933 trong một gia đình nông dân nghèo, ở thôn Chánh Lộc, xã Hà Giang, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
Thông minh, sáng dạ, quyết chí học hành, cậu bé Trần Xuân Thu là một trong ba người thi đỗ sơ học yếu lược ở phủ Hà Trung và là người duy nhất thi đỗ “mention” để được học tiếp lớp nhì của Trường quốc học phủ Hà Trung. 12 tuổi, Trần Xuân Thu tham gia Đội Thiếu niên Việt Minh, được bầu là Thư ký của Đội và tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở phủ Hà Trung. Sau Cách mạng Tháng Tám, Ông xung phong làm giáo viên dạy chữ cho người dân quê hương và vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 15/4/1950. Lúc đó, Ông mới 17 tuổi. Cùng năm đó, đang học lớp đệ tam trung học, Ông gia nhập Quân đội.
Sau khi tốt nghiệp Trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn khóa 6 và học thêm một lớp công tác tham mưu do Bộ Tổng Tham mưu tổ chức, Ông được điều về Tiểu đoàn 888, Trung đoàn 176, Đại đoàn 316, hoạt động trong vùng sau lưng địch ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc; trực tiếp tham gia nhiều trận đánh táo bạo và giành thắng lợi vẻ vang. Là người biết tiếng Pháp nên trong các trận chiến đấu, Ông thường được phân công làm công tác địch vận và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Cuối năm 1952, Ông được chọn đi học lớp phi công ở Liên Xô. Do không đạt yêu cầu về sức khỏe (mắt kém), Ông được điều về công tác ở Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu, làm công tác tham mưu điện và tham gia các chiến dịch Thượng Lào, Điện Biên Phủ. Tham mưu điện là người trực tiếp nhận, theo dõi và ghi lại các bức điện, trong đó có các mệnh lệnh chiến đấu từ Tổng Tư lệnh đến các tiểu đoàn, trung đoàn, đại đoàn và các chiến trường, sau đó chuyển cho cơ yếu chuyển ra mật mã rồi đưa sang bộ phận thông tin 15W; tổng hợp tình hình các chiến trường, các đại đoàn; theo dõi diễn biến tình hình trên sa bàn, cắm cờ các mũi, các hướng của ta và của địch.
Trong Lễ mít tinh, duyệt binh chào mừng Bác Hồ và Trung ương Đảng trở về Thủ đô Hà Nội, Ông vinh dự được phân công làm Đại đội trưởng khối Cơ quan Bộ Tổng Tư lệnh.
Năm 1960, Ông được cử đi học đào tạo ở Học viện Phòng hóa Matxcova (Học viện BAX1, Liên Xô). Sau bốn năm học tập, tốt nghiệp và trở về nước, Ông được điều về công tác ở Ban Kỹ thuật hóa nghiệm thuộc Phòng Hóa học Cục Hóa học, Bộ Tổng Tham mưu. Thời gian này, Ông được giao phụ trách đồng thời là giảng viên về chất độc thần kinh cho Lớp đào tạo Sĩ quan hóa học đầu tiên cho gần một trăm học viên là sinh viên Khoa Hóa học, Sinh học và Toán học tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cũng trong thời gian này, Ông làm Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu mặt nạ Việt Nam; trong đó, thành công quan trọng nhất là nghiên cứu than hoạt tính từ nguyên liệu than antraxit, than sọ dừa và than hỗn hợp. Ông đã thiết kế thành công và chế tạo lò hoạt hóa than hoạt tính; tổ chức sản xuất hàng vạn chiếc khẩu trang có khả năng phòng chống một số loại chất độc kích thích để trang bị cho bộ đội ta.
Từ năm 1967 đến năm 1971, Ông làm nghiên cứu sinh tiến sĩ khoa học kỹ thuật tại Học viện Phòng hóa và Viện Hóa lý thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô. Trở về nước, Ông được bổ nhiệm giữ các chức vụ: Phó Trưởng phòng, Trưởng phòng Nghiên cứu Kỹ thuật, Cục Hóa học, Bộ Tổng Tham mưu; Viện trưởng Viện Hóa học Quân sự (9/1976); Chủ nhiệm Kỹ thuật Binh chủng Hóa học (6/1982); Phó Tư lệnh kiêm Chủ nhiệm Kỹ thuật Binh chủng Hóa học (1986); Tổng Giám đốc Trung tâm Nhiệt đới Việt – Xô (2/1988).
Ông đã kết hợp với nhiều giáo sư, tiến sĩ ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội nghiên cứu thành công nhiều đề tài khoa học về độc học và than hoạt tính; được Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng cố vấn Khoa Quốc tế Việt – Nga, trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Tham gia nhiều công trình nghiên cứu về phương tiện phòng hóa, chất tiêu độc, vũ khí hóa học, súng phun lửa; cải tiến súng M72A1 và M72A2 thành súng bắn được nhiều lần và bắn đạn XM72 (vũ khí lửa). Biên soạn tài liệu “Vũ khí hạt nhân và cách phòng chống”; nghiên cứu, khai thác chất cháy và các phương tiện sử dụng; nghiên cứu bộ phát hiện chất độc, chất phóng xạ từ xa. Thực hiện 2 đề tài cấp nhà nước: “Nghiên cứu và ứng dụng các biện pháp kỹ thuật phòng chống bệnh bụi phổi silicose cho công nhân làm việc trong các xưởng đúc của các nhà máy cơ khí Việt Nam”, “Nghiên cứu xây dựng và đưa vào sử dụng hệ thống đánh giá chất lượng phương tiện bảo vệ cơ quan hô hấp phòng chống hơi, khí độc”. Nghiên cứu, phân tích, phát hiện chất độc phóng xạ; nghiên cứu cải tiến đạn B41 thành B41C. Nghiên cứu thành công và chuyển giao quy trình sản xuất ống dò độc 1 vòng đỏ, 1 chấm xanh đỏ. Thực hiện các đề tài: Men sinh hóa dùng để phát hiện chất độc thần kinh độc tính cao, Môi trường phóng xạ, Mặt nạ phòng độc...
Ông là người tham gia nhiều đề tài nghiên cứu và tiến hành nhiều thí nghiệm để xác định tác hại của chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam; nghiên cứu các giải pháp tiêu độc dioxin tại các vùng bị nhiễm độc. Kết quả nghiên cứu đã được công bố tại Tòa án công luận quốc tế Béctơrăng Rútxen, các Hội nghị khoa học quốc tế và phục vụ đắc lực cuộc đấu tranh đòi công lý cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam. Ông là người có công đầu trong tham mưu đề xuất để duy trì, củng cố và phát triển Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga sau khi Liên Xô bị tan rã.
Ngày 26/6/1992, Ông được thăng quân hàm Thiếu tướng Quân đội NDVN.
Ngày 3/11/2000, Ông được Tổng thống Nga ký quyết định tặng Huân chương Hữu nghị Liên bang Nga.
Ngày 26/2/2001, Ông được Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học nghiên cứu hệ thống Liên Bang Nga bổ nhiệm là Viện sĩ chính thức của Viện.
Tháng 11/1999, ông được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định cho nghỉ hưu bắt đầu từ ngày 1/1/2000.
Tiếp đó, gần trọn 10 năm (1/2004 – 12/2013), trên cương vị Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, Ông đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội; vận động các nguồn lực xã hội để chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam và đấu tranh đòi công lý cho nạn nhân chất độc da cam. Ông từng dẫn đầu Đoàn Nạn nhân chất độc da cam Việt Nam sang Mỹ dự phiên tranh tụng tại Tòa phúc thẩm trong vụ các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam kiện 37 công ty hóa chất Hoa Kỳ đã sản xuất và cung cấp chất độc hóa học cho quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam; đọc báo cáo bằng tiếng Anh lên án quân đội Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh hóa học lớn nhất trong lịch sử loài người tại Hội nghị quốc tế về hậu quả chất độc da cam, tổ chức tại hội trường Thượng viện Pháp; tham gia viết Tuyên bố của Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam về việc Thẩm phán tại Tòa án Liên bang quận Brooklyn, bang New York, Hoa Kỳ bác đơn kiện của các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam; đến Mỹ và nhiều nước châu Âu: Pháp, Ý, Anh... để kêu gọi sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế; trả lời phỏng vấn nhiều phóng viên báo chí trong nước và nước ngoài, nâng cao vị thế, uy tín của Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam.
89 tuổi đời, hơn 70 năm tuổi đảng, 50 năm trong quân ngũ, với bản tính trung thực, cởi mở, hòa đồng, tận tâm với công việc, Ông được cấp trên tin tưởng, cấp dưới và các cộng sự kính trọng, nhân dân tin yêu, đùm bọc. Ông tự hào vì trên các cương vị được giao đều hoàn thành tốt nhiệm vụ; cảm thấy hạnh phúc vì có một người vợ thủy chung, đảm đang, các con trai gái dâu rể, các cháu nội ngoại đều trưởng thành. “Bố là người đàn ông đã hoàn thành trọn vẹn bổn phận trên cả hai vai: gia đình và Tổ quốc. Chúng con tự hào về bố, chúng con muốn được làm một người như bố”. Đó là phát biểu của Đại tá Bạch Quốc Huy, con rể trưởng của Ông trong dịp Tết Tân Mão – 2011.
Xin nghiêng mình vĩnh biệt Thiếu tướng, PGS, TS, VS Trần Xuân Thu, người Cộng sản kiên trung, vị tướng đức độ, nhà khoa học tài năng, đã trọn đời cống hiến sức lực và trí tuệ của mình cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, một chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi vì hòa bình, vì công lý cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam!
Thành tâm cầu nguyện cho hương hồn Ông được thanh thản ở cõi vĩnh hằng!
Lê Cường
Bình luận