Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, quân đội Mỹ không chỉ sử dụng các vũ khí sát thương, mà còn sử dụng cả vũ khí hóa học nhằm hủy diệt môi trường, ngăn chặn bước tiến của lực lượng vũ trang cách mạng. Theo số liệu được công bố tại Hội thảo quốc tế “Đánh giá tác hại của chất độc da cam/dioxin Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam” được tổ chức tại Hà Nội (ngày 8,9/8/2016), trong 10 năm (1961 - 1971) quân đội Mỹ đã sử dụng trên 80 triệu lít chất độc diệt cây, trong đó 61% là chất da cam, chứa 366kg chất độc dioxin cùng với trên 9000 tấn chất độc CS rải xuống miền Nam Việt Nam. Chất độc da cam đã làm cho khoảng 3,6 triệu hec-ta rừng bị hủy diệt (1); gần 4,8 triệu người bị phơi nhiễm, hơn 3 triệu người là nạn nhân; chất độc da cam/dioxin gây ra nhiều bệnh tật nguy hiểm như ung thư, tai biến sinh sản, quái thai, dị dạng, dị tật của nhiều thế hệ. Nhiều công trình nghiên cứu của Ủy ban 10-80, Ban Chỉ đạo Quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (Ban Chỉ đạo 33), Binh chủng Hóa học, Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga, Học viện Quân y và nhiều nhà khoa học Mỹ, Nhật Bản, Canada… đã chứng minh hậu quả của chất da cam/dioxin đối với môi trường và con người Việt Nam...

Chiến tranh đã lùi xa gần 50 năm, song hậu quả của nó đến ngày nay vẫn rất nặng nề; ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn lực lao động và các vấn đề xã hội. Vì vậy, khắc phục hậu quả chất độc tồn lưu sau chiến tranh, chăm lo sức khỏe, nâng cao đời sống của NNCĐDC là vấn đề quan trọng, có quan hệ đến phát triển bền vững kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước.
Được Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ là lực lượng nòng cốt tham gia điều tra, khảo sát, thu gom, xử lý chất độc tồn lưu sau chiến tranh, gần 50 năm qua (1975 - 2023), Binh chủng Hóa học đã quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và chính sách, pháp luật về kiểm soát, xử lý các vùng ô nhiễm chất độc hóa học tồn lưu; phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị có liên quan nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng về tình hình nhiễm độc, xây dựng kế hoạch, lựa chọn công nghệ khả thi và hợp tác quốc tế trong khắc phục hậu quả chất độc hóa học (CĐHH) tồn lưu sau chiến tranh.
Trên cơ sở những định hướng lớn của Chính phủ, Bộ Quốc phòng về nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp công nghệ xử lý CĐHH tồn lưu; mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về điều kiện cơ sở vật chất, nhất là hệ thống các trang thiết bị, phòng thí nghiệm phục vụ cho công tác nghiên cứu còn lạc hậu, song Binh chủng đã chỉ đạo triển khai thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ xử lý chất độc CS và vũ khí, phương tiện chứa chất độc CS; nghiên cứu, lựa chọn công nghệ xử lý CĐHH chứa dioxin và được ứng dụng trong thực tiễn, đạt hiệu quả cao, phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, tiết kiệm chi phí, nhân công (2).
Bằng tình cảm và trách nhiệm chính trị, phát huy tiềm lực về con người, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật sẵn có, Binh chủng đã tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện hơn 20 dự án, nhiệm vụ điều tra, thu gom, xử lý CĐHH tồn lưu sau chiến tranh. Đã tiến hành điều tra 293 quận, huyện, thị của 34 tỉnh, thành phố và các kho thuộc Tổng cục Kỹ thuật, Quân khu 5, 7, 9, thu gom, xử lý trên 455 tấn chất độc CS và vũ khí, phương tiện chứa chất độc CS; xây dựng bản đồ số hóa các điểm tồn lưu chất độc đã được phát hiện và đã xử lý. Hiện nay, Binh chủng tiếp tục triển khai các dự án phúc tra, thu gom, xử lý chất độc CS và đạn dược chứa chất độc CS tại các địa điểm mới; đã phúc tra 25 địa điểm tại các tỉnh Thừa Thiên Huế, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Nông, Quảng Ngãi, Tiền Giang; thu gom, xử lý trên 28 tấn chất độc CS, 1 tấn đạn dược chứa CS và 286m3 đất nhiễm. Phúc tra, khảo sát, thu gom, xử lý chất độc CS và sản phẩm thủy phân chất độc CS tại các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, thu gom, vận chuyển, xử lý trên 267 tấn chất độc, sản phẩm thủy phân và đạn dược chứa chất độc CS.
Đối với nhiệm vụ xử lý đất nhiễm chất độc da cam/dioxin, Binh chủng đã tổ chức điều tra, khảo sát, đánh giá tổng thể mức độ ô nhiễm tại 19 sân bay và một số khu vực, nhất là các “điểm nóng” ô nhiễm dioxin (3). Trên cơ sở kết quả điều tra, tổng hợp, đánh giá mức độ ô nhiễm dioxin, điều kiện khí tượng thuỷ văn, địa chất và các yếu tố môi trường, đề xuất các giải pháp xử lý khả thi cho từng khu vực tồn lưu chất độc. Xây dựng các phương án ngăn chặn tạm thời, xử lý trước mắt và xử lý triệt để lâu dài, giảm thiểu tác động và tiến tới loại trừ tác động nguy hiểm của chất độc da cam/dioxin tới con người và môi trường. Xử lý trên 150.000m3 đất nhiễm chất độc da cam/dioxin tại sân bay Biên Hòa (thuộc dự án XĐ-1, XĐ-2). Tư vấn xây dựng phương án chống lan tỏa tạm chất độc da cam/dioxin khu vực Tây Nam đường băng sân bay Biên Hòa. Xử lý, chôn lấp 7.500m3 đất ô nhiễm tại sân bay Phù Cát. Chống lan toả tạm thời chất độc chứa dioxin tại sân bay Đà Nẵng và giám sát công nghệ dự án “Xử lý môi trường ô nhiễm dioxin tại sân bay Đà Nẵng” bao gồm các hoạt động giám sát quá trình xây dựng, lắp đặt, vận hành hệ thống xử lý đất nhiễm dioxin bằng công nghệ khử hấp nhiệt trong mố của Hoa Kỳ; tư vấn xây dựng phương án chống lan tỏa tạm ô nhiễm chất độc da cam/dioxin khu vực Tây Nam đường băng sân bay Biên Hòa. Đẩy nhanh tiến độ xử lý khoảng 20.000m3 đất nhiễm dioxin tại sân bay A So (Thừa Thiên Huế). Quá trình thực hiện các dự án, nhiệm vụ, Bộ đội Hóa học còn tiến hành thu thập, xử lý, tổng hợp và biên soạn tài liệu “Chất diệt cây trong chiến tranh Việt Nam 1961-1975”; tài liệu này làm phong phú thêm bằng chứng đấu tranh buộc chính phủ Hoa Kỳ phải có trách nhiệm đối với việc khắc phục hậu quả CĐHH trong chiến tranh Việt Nam. Thông qua các hội nghị, hội thảo quốc tế, các cuộc đối thoại Việt-Mỹ và kết quả điều tra, khảo sát sự tồn lưu của chất độc, Binh chủng Hóa học đã góp phần tái hiện lại “bức tranh toàn cảnh” về tội ác mà đế quốc Mỹ gây ra cho nhân dân ta do sử dụng chất độc hóa học trong chiến tranh Việt Nam, góp phần đấu tranh đòi công lý cho các nạn nhân da cam/dioxin, phía Hoa Kỳ đã thừa nhận và khẳng định: “Hai bên nỗ lực hơn nữa để giải quyết vấn đề nhiễm độc môi trường gần các kho chất độc chứa dioxin trước đây sẽ góp phần đáng kể vào việc tiếp tục phát triển quan hệ hai nước” (4).
Cùng với đó, Binh chủng Hóa học đã chủ động tham mưu, đề xuất với Chính phủ, Bộ Quốc phòng về việc hợp tác quốc tế trong nhiệm vụ khắc phục hậu quả CĐHH tồn lưu sau chiến tranh. Thông qua các hội thảo quốc tế, tiếp xúc giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, phía Hoa Kỳ đã cung cấp nhiều số liệu quan trọng về địa điểm, quy mô, số lượng chất da cam/dioxin, nhất là những nơi tồn lưu chất độc da cam/dioxin mà chúng ta chưa có thông tin cũng như điều kiện để điều tra, làm cơ sở để tham mưu với Chính phủ, Bộ Quốc phòng xây dựng và thực hiện các dự án xử lý. Đặc biệt, hợp tác thử nghiệm công nghệ xử lý dioxin được Binh chủng triển khai sâu rộng và đạt được nhiều kết qủa quan trọng. Nổi bật là: Liên danh Trung tâm Công nghệ xử lý môi trường và Tập đoàn Shimizu (Nhật Bản) đã thử nghiệm xử lý đất nhiễm dioxin bằng công nghệ rửa đất và công nghệ giải hấp nhiệt trong lò của Công ty TeraTherm/Hoa Kỳ và Công nghệ lò quay của Tập đoàn Shimizu, có khả năng áp dụng để xử lý triệt để đất, trầm tích nhiễm dioxin tại sân bay Biên Hòa cũng như các khu vực khác còn tồn lưu đất nhiễm dioxin tại Việt Nam (5). Hợp tác với Tập đoàn Haemers Technologies (Bỉ) triển khai thử nghiệm chứng minh hiệu quả của công nghệ xử lý Smart BurnersTM để xử lý đất nhiễm dioxin về ngưỡng dioxin và furan mục tiêu ở các vị trí xác định. Bên cạnh đó, Binh chủng còn tiếp nhận, lắp đặt, vận hành, làm chủ các trang thiết bị thuộc dự án “Tiếp nhận trang thiết bị phân tích dioxin và môi trường do Chính phủ Nhật Bản tài trợ”, góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu, phân tích, giám sát, quản lý và xử lý ô nhiễm dioxin và các hợp chất POPs tồn lưu sau chiến tranh.
Cùng với việc điều tra, thu gom, xử lý CĐHH tồn lưu sau chiến tranh, ngăn chặn và giảm thiểu sự tàn phá đối với hệ sinh thái, làm sạch môi trường, Binh chủng Hóa học còn chủ động, tích cực phối hợp với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể chính trị, xã hội, nhất là Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (VAVA) tổ chức nhiều hoạt động thiết thực vì nạn nhân da cam, như: Tổ chức trưng bày thường xuyên về chủ đề da cam/dioxin tại Bảo tàng Hóa học với nhiều hình ảnh, hiện vật phong phú, gây ấn tượng mạnh với khách tham quan; phối hợp tổ chức các cuộc triển lãm: “Da cam-Lương tri và công lý”, “Hồi sinh những vùng đất chết”, “Đồng hành và sẻ chia”, “Môi trường vẫy gọi” tại nhiều tỉnh, thành trong cả nước; sản xuất các phim tài liệu, phim chuyên đề; phát hành sách ảnh “Thảm họa da cam/dioxin-60 năm nhìn lại”. Ngoài ra, cán bộ, chiến sĩ còn tích cực tham gia ủng hộ “Quỹ nạn nhân chất độc da cam”; thăm hỏi, động viên, tặng quà cho các gia đình có hoàn cảnh khó khăn tại địa phương nơi Binh chủng thực hiện các dự án xử lý chất độc tồn lưu.
Đặc biệt, Binh chủng chỉ đạo Trung tâm hành động Quốc gia khắc phục hậu quả CĐHH và môi trường (NACCET) chủ trì thực hiện có hiệu quả dự án “Hỗ trợ cải thiện chất lượng sống của người khuyết tật tại các tỉnh bị phun rải nặng chất da cam” tại 8 tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Bình Định, Kon Tum, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh do Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ. Đến tháng 2/2023, dự án đã đạt được 70% nội dung, mục tiêu theo kế hoạch (6).
Kết quả thực hiện nhiệm vụ xử lý CĐHH tồn lưu sau chiến tranh và các hoạt động thiết thực vì NNCĐDC của Binh chủng Hóa học có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội của đất nước; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội. Đã đánh giá một cách tổng thể tình hình ô nhiễm CĐHH trên các địa bàn, nhất là những địa bàn chiến lược quan trọng; từng bước tẩy độc, phục hồi môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, góp phần thực hiện mục tiêu giải quyết cơ bản hậu quả của CĐHH do Mỹ sử dụng trong chiến tranh đối với môi trường và con người ở Việt Nam. Cải thiện môi trường đầu tư, tăng hiệu quả sử dụng đất, giúp các địa phương thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nói chung, NNCĐDC nói riêng. Cung cấp số liệu điều tra, khảo sát có độ tin cậy cao, làm cơ sở để Đảng, Nhà nước có chính sách phát triển phù hợp; đồng thời khẳng định tinh thần dũng cảm, kiên cường vượt qua khó khăn, độc hại, nguy hiểm của cán bộ, chiến sỹ hóa học vì môi trường trong lành, vì hạnh phúc của nhân dân.
Trong những năm tới, để tiếp tục giải quyết hậu quả của chất độc tồn lưu sau chiến tranh, Binh chủng tiếp tục quán triệt, thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng về công tác khắc phục hậu quả CĐHH tồn lưu sau chiến tranh (7). Đẩy mạnh hoạt động thông tin, tuyên truyền làm chuyển biến sâu sắc về nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, cán bộ, chiến sĩ về vị trí, tầm quan trọng của việc khắc phục hậu quả CĐHH tồn lưu sau chiến tranh đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước và công tác chăm sóc sức khỏe, nâng cao đời sống cho NNCĐDC. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương tuyên truyền cho nhân dân các khu vực bị ảnh hưởng bởi CĐHH các biện pháp phòng tránh, giảm thiểu tác động tiêu cực của chất độc tồn lưu, góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa.
Tiếp tục đánh giá một cách toàn diện các tác hại của chất da cam/dioxin đối với con người và môi trường trên các địa bàn, nhất là các “điểm nóng” và kiểm soát, giảm thiểu nguồn gốc phát sinh dioxin, Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án đã được phê duyệt và dự án mở mới.
Phối hợp với Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, gắn kết những tấm lòng nhân ái cùng quan tâm chia sẻ, góp phần xoa dịu nỗi đau da cam. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả dự án “Hỗ trợ cải thiện chất lượng sống của người khuyết tật tại các tỉnh bị phun rải nặng chất da cam”./.
Tài liệu tham khảo:
1 - Trước chiến tranh, miền Nam Việt Nam có diện tích rừng bao phủ là 10,3 triệu hec-ta. Khi quân đội Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh hóa học, hơn 2 triệu hec-ta đất rừng đã bị phá hủy; trên 150.000 hec-ta rừng ngập mặn, 130.000 hec-ta rừng tràm vùng châu thổ sông Mê Kông và hàng trăm nghìn hec-ta đất rừng nội địa bị phá hủy. Vùng Đông Nam Bộ có trên 50% diện tích tự nhiên bị tác động. Chiến khu D, Chiến khu C, rừng Bời Lời, rừng Củ Chi... bị rải hàng triệu lít chất độc, nhiều khu rừng đã bị triệt phá hoàn toàn như Mã Đà (Đồng Nai), Phú Bình, Bù Gia Mập (Bình Phước)...
2 - Tiêu biểu: Quy trình công nghệ thu gom, xử lý chất độc CS tồn lưu sau chiến tranh (Quyết định số 255/2003/QĐ-BQP ngày 15/10/2003 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng); năm 2020, Viện Hóa học Môi trường quân sự nghiên cứu, xây dựng quy trình công nghệ xử lý chất độc CS và các sản phẩm thủy phân chất độc CS (Quy trình số 17/QTCN ngày 08/01/2021), thay thế Quy trình công nghệ xử lý chất độc CS theo Quyết định số 255/2003/QĐ-BQP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Đề tài cấp Nhà nước: “Nghiên cứu lựa chọn công nghệ xử lý triệt để dioxin trong đất và trầm tích phù hợp điều kiện Việt Nam”. Đề tài cấp Bộ: “Nghiên cứu giải pháp xử lý khu vực đất nhiễm chất độc dioxin” và “Nghiên cứu lựa chọn công nghệ khả thi để xử lý đất nhiễm dioxin trong điều kiện Việt Nam”.
3 - Gồm các sân bay: Đà Nẵng, Phù Cát, Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Nha Trang, Tuy Hòa, Phan Rang, Phú Bài, Phượng Hoàng (Kon Tum), Plâyku (Gia Lai), Tây Ninh, Vàm Cống (An Giang), Cần Thơ, Long Toàn (Trà Vinh), Núi Đất (Bà Rịa-Vũng Tàu), Dầu Tiếng (Bình Dương), Phước Long (Bình Phước), Cam Ly, Cát Tiên (Lâm Đồng) và các khu vực Đồi quân sự Sạc Ly (Kon Tum), Hồ Khe Lời (Thừa Thiên-Huế).
4 - Tuyên bố chung Việt Nam-Hoa Kỳ trong dịp Hội nghị APEC-14 (11/2006)
5 - Kết quả thử nghiệm bằng Công nghệ rửa đất: Xử lý 960 tấn đất nhiễm dioxin ở các nồng độ khác nhau, có khoảng 70% đất sau rửa có nồng độ dioxin trong giới hạn cho phép theo QCVN 45:2012/BTNMT. Thử nghiệm Công nghệ giải hấp nhiệt trong lò và Công nghệ lò quay: Xử lý 70,2 tấn bánh bùn với nồng độ dioxin rất cao (sản phẩm của công nghệ rửa đất), 100% bánh bùn sau xử lý có hàm lượng dioxin dưới giới hạn cho phép theo QCVN 45:2012/BTNMT (0,5-0,7pg/g), hiệu quả loại bỏ dioxin trên 99,87%.
6 - Đã tiến hành khám sàng lọc 12.000 người, 3.500 người nhận được can thiệp phục hồi chức năng; 6.000 người được dịch vụ chăm sóc y tế; gần 1.000 người nhận hỗ trợ về sống độc lập; gần 5.000 người nhà và người chăm sóc được đào tạo kỹ năng chăm sóc và nhận hỗ trợ trong việc chăm sóc người khuyết tật; đào tạo gần 400 cán bộ phục hồi chức năng và 2.500 người cung cấp dịch vụ. hỗ trợ định hướng đa chuyên ngành 10 cơ sở phục hồi chức năng; 8 tổ chức xã hội, câu lạc bộ, hội người khuyết tật tham gia vận động hỗ trợ người khuyết tật; hơn 200 người khuyết tật, nạn nhân da cam tham gia các hoạt động của mạng lưới hỗ trợ người khuyết tật (Báo cáo số 509/BC-BCHH ngày 27/02/2023 của Binh chủng Hóa học về Kết quả thực hiện dự án năm 2022).
7 - Trọng tâm là: Chỉ thị số 43-CT/TW ngày 14/5/2015 của Ban Bí thư (khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết hậu quả CĐHH do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam”; Kế hoạch hành động quốc gia khắc phục hậu quả CĐHH tồn lưu sau chiến tranh ở Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 (theo Quyết định số 2215/QĐ-TTg ngày 28/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ), Chỉ thị số 05/CT-BQP ngày 03/02/2017 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng “Về việc tổ chức thực hiện các dự án, chương trình khắc phục, xử lý CĐHH/dioxin trong Quân đội”.
Đại tá, TS Phạm Xuân Hưng
Phó Tư lệnh Binh chủng Hóa học
Bình luận