Đại hội VI – Đại hội của Đổi mới
Diễn ra từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986 tại Hà Nội, Đại hội VI có 1.129 đại biểu, đại diện cho gần 1,9 triệu đảng viên cùng 32 đoàn đại biểu quốc tế. Trong không khí dân chủ, thẳng thắn, khách quan, Đại hội đã thể hiện sự thống nhất cao trong việc đổi mới tư duy, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học.

Đại hội nhận định: Trong nhiệm kỳ 1981–1986, tuy đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, nhưng kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân thiếu thốn. Nguyên nhân chủ yếu là do những sai lầm trong nhận thức và quản lý kinh tế - xã hội, đặc biệt trong việc xác định mục tiêu và cơ cấu phát triển chưa phù hợp.
Từ thực tiễn đó, Đại hội rút ra bốn bài học lớn: (1) Trong mọi hoạt động, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
(2) Mọi đường lối, chính sách phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. (3) Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
(4) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ của một Đảng cầm quyền.
Trên cơ sở đó, Đại hội xác định ba định hướng lớn cho công cuộc đổi mới: Đổi mới cơ cấu kinh tế phù hợp yêu cầu phát triển của đất nước; Thực hiện ba chương trình kinh tế trọng điểm: lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Đại hội khẳng định: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là phương thức căn bản để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cơ chế “Đảng lãnh đạo – Nhân dân làm chủ – Nhà nước quản lý” là nguyên tắc vận hành chung của toàn xã hội. Đồng thời, Đại hội nhấn mạnh yêu cầu đổi mới toàn diện công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, củng cố đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI gồm: 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được tín nhiệm bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương. Đại hội VI vì thế được khẳng định là “Đại hội của Đổi mới”, mở đầu giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh – “Tổng công trình sư” của công cuộc đổi mới
Đồng chí Nguyễn Văn Linh, tên khai sinh là Nguyễn Văn Cúc (thường gọi là Mười Cúc), sinh tại xã Giai Phạm, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên (nay là xã Nguyễn Văn Linh, tỉnh Hưng Yên). Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là tấm gương sáng về người chiến sĩ kiên trung, nhà lãnh đạo tài năng, sáng tạo – người Tổng Bí thư đầu tiên của thời kỳ đổi mới.
Ngay sau khi được bầu làm Tổng Bí thư tại Đại hội VI, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã cùng tập thể Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương triển khai đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước bước sang thời kỳ phát triển mới. Phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật để phát triển” được đồng chí quán triệt sâu sắc trong mọi chủ trương, quyết sách.
Dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Đảng đã cụ thể hóa đường lối đổi mới bằng ba chương trình kinh tế lớn, gắn phát triển kinh tế với nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý nhà nước và đấu tranh chống tiêu cực trong xã hội. Đồng chí nhiều lần khẳng định quan điểm chỉ đạo: Phát huy mọi tiềm năng của đất nước và nhân dân; phát triển sản xuất đi đôi với củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ cơ chế bao cấp, quan liêu; phân cấp quản lý, khuyến khích các đòn bẩy kinh tế; coi trọng vai trò của khoa học – kỹ thuật và thượng tôn pháp luật.
Một dấu ấn lịch sử là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988) – “Khoán 10” – mở ra bước đột phá lớn trong nông nghiệp, giúp Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Trên lĩnh vực đối ngoại, đồng chí chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, đưa Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống quốc tế, nâng cao vị thế đất nước trên trường thế giới.
Là người sâu sát thực tiễn, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh luôn kịp thời phát hiện, chỉ đạo tháo gỡ những “điểm nghẽn”, xóa bỏ tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”, khơi dậy động lực phát triển trong xã hội. Đặc biệt, từ năm 1987 đến 1990, với bút danh N.V.L, đồng chí đã viết 31 bài “Những việc cần làm ngay” đăng trên Báo Nhân Dân – loạt bài thể hiện tinh thần dân chủ, dũng cảm, kiên quyết đấu tranh chống tiêu cực, được cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước hưởng ứng mạnh mẽ.
Trong những năm 1990–1991, đồng chí trực tiếp chỉ đạo soạn thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) – văn kiện mang giá trị chiến lược, trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới và cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Đánh giá về vai trò của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Đảng ta khẳng định: “Với cương vị là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã cùng tập thể Bộ Chính trị lãnh đạo nhạy bén, sáng tạo, chủ động chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thời kỳ biến động, đẩy mạnh công cuộc đổi mới và đạt được những thành tựu quan trọng: củng cố quốc phòng – an ninh, cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.”
Đồng chí Nguyễn Văn Linh là người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, người “Tổng công trình sư” của công cuộc đổi mới Việt Nam.
Gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã có đủ tiềm lực và vị thế để bước vào kỷ nguyên “Vươn mình của dân tộc”. Thành quả đó khẳng định Đại hội VI là bước ngoặt quyết định đưa cách mạng Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng, đặt nền móng cho sự phát triển bền vững của đất nước. Trong thắng lợi chung ấy, vai trò của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là hạt nhân trung tâm – người khởi xướng, dẫn dắt và truyền cảm hứng cho toàn Đảng, toàn dân, đưa sự nghiệp đổi mới đi đúng hướng và đạt kết quả vững chắc.
Phạm Tuấn












.png)

.png)
Bình luận