• Quảng cáo: 0246.265.2654
Tiếng Việt
English
logo
ĐOÀN KẾT - NGHĨA TÌNH - TRÁCH NHIỆM - VÌ NẠN NHÂN CHẤT ĐỘC DA CAM

60 năm... và những tâm sự nghẹn lòng

60 năm... và những tâm sự nghẹn lòng

Có một thảm họa mà tác hại của nó đối với môi trường và sức khỏe con người không chỉ đo bằng những con số thống kê. Có một nỗi đau không chỉ đối với các nạn nhân mà còn là nỗi đau chung của cả dân tộc và nhân loại tiến bộ - đó là thảm họa da cam, một thảm họa kinh hoàng, một nỗi đau xuyên thế kỷ.

Trên đất nước ta, nhiều gia đình có đến 8 nạn nhân như: gia đình ông Phạm Văn Thành (Hà Tĩnh), gia đình ông Nguyễn Văn Quang (Cần Thơ)... Gia đình bà Đinh Thị Tự (Hà Nam)... Cá biệt, gia đình ông Đỗ Đức Địu (Quảng Bình) có tới 15 nạn nhân.

Ông Địu lau mặt cho hai con gái tật nguyền, Đỗ Thị Hằng và Đỗ Thị Nga

Nhiều gia đình cả 3 thế hệ đều là nạn nhân, nhiều gia đình chồng mất, để lại cho vợ những đứa con tàn tật, ngơ ngẩn, nằm một chỗ. Có gia đình vợ mất, để chồng trong cảnh gà trống nuôi con. Có gia đình con gái lấy chồng bị chồng bỏ, con trai lấy vợ, vợ cắp nón ra đi, để lại cho ông bà gánh nặng nuôi cháu nhỏ. Và họ đã thốt lên những tiếng nói nghẹn lòng:

Bà Đặng Thị Hồng (Bình Thuận): “Chẳng có nỗi đau nào hơn nỗi đau của người phụ nữ khi sinh ra những đứa con không lành lặn. Thật khó đong đếm hết nỗi đau của người mẹ khi phải chứng kiến giọt máu của mình sinh ra với những hình hài, trí óc không trọn vẹn và những giọt nước mắt, nỗi đau ấy cứ kéo dài mãi mãi”.

Bà Trần Thị Châm (Thanh Hóa): “Ngày cũng như đêm, trong ngôi nhà nhỏ của gia đình tôi đáng lẽ phải đầy ắp tiếng cười nhưng lại chỉ có tiếng đập phá, gào thét của các con”. Bà Nguyễn Thị Thanh (Tuyên Quang): “Ngày qua ngày, năm qua năm, cơm tôi ăn chan hòa nước mắt, nước tôi uống chát mặn mồ hôi”. Bà Phạm Thị Lê (tỉnh Nam Định): “Trên 30 năm trời, tôi mong các con cất lời gọi mẹ, gọi cha mà không có, thay vào đó là tiếng la hét, kêu khóc, gào rú”. Bà Hoàng Thị Thê (TP Đà Nẵng): “Gần 30 năm, chưa một đêm được ngủ giấc trọn vẹn, chưa một ngày thong thả cho chính bản thân”. Bà Tiêu Thị Thái (Hải Dương): “Sinh và nuôi con mà ruột đau như cắt. Nuôi con càng nhiều năm, gia cảnh càng nghèo, con càng thêm tuổi càng đau khổ. Không lúc nào vợ chồng tôi có nụ cười vui vẻ”. Ông Lê Thành Đức (Quảng Bình): “Cha mẹ ru con suốt cả ngàn đêm trắng/ Lưng cha mẹ còng, nước mắt mẹ cạn vơi”. Ông Nguyễn Văn Đệ (Bắc Giang): “Hàng ngày, tôi phải vật lộn với bệnh tật để sống, phải lao động sản xuất để khắc phục đói nghèo, nuôi chính bản thân mình, nuôi gia đình và còn phải sống hộ các con, từ những công việc đời thường nhỏ nhất, hết ngày này sang ngày khác, âm ỉ như lửa chiến tranh nóng bỏng suốt 30 năm nay. Tôi xót xa vì sinh con ra không được bằng bạn, bằng người, vất vả đau thương về thể xác, cay đắng đau khổ về tinh thần, nuôi mãi mà con không lớn, nợ không mòn”. Bà Bùi Thị Mậu (Thái Bình): “Anh đã mang đi tất cả những năm tháng trong quân đội, không để lại gì, chỉ để lại những đứa con tật nguyền, điên dại và tấm Huân chương Kháng chiến”. Ông Nguyễn Đại Số (Quảng Ninh): “Ngoài chăm sóc việc ăn uống, tắm giặt, tôi còn phải canh chừng các con đập phá hoặc bỏ nhà ra đi; phải chằng buộc mọi thứ trong nhà, từ bàn thờ tổ tiên đến điện thoại, kể cả nắp đậy bồn vệ sinh và khóa tất cả mọi thứ chạn bát, nơi để dao kéo, đồ dùng nấu ăn, bể nước. Tôi phải dùng tới 26 cái khóa. Mọi đồ dùng trong nhà đều bằng nhựa”.

Ông Bùi Công Thuận (TP Hồ Chí Minh): “Tại sao tôi phải dùng dây dù hoặc xích sắt trói con mình lại? Trên thế giới này có ai giống tôi không? Nghĩ đời cũng lạ. Tham gia kháng chiến đến ngày giải phóng không việc gì, sang chiến đấu ở Campuchia 3 năm giúp Bạn không việc gì. Bây giờ bị con tâm thần đánh cho mù mắt là do đâu? Chỉ có người trong cuộc mới thấu hiểu cảm xúc của người cha khi chính tay mình cầm dây trói tay chân đứa con mình hết sức yêu thương”.

Anh Dương Toàn Thắng (Bình Định): “Hầu như gia đình tôi quanh năm ngày tháng không có tiếng cười, chỉ có tiếng thở dài và nước mắt; và bây giờ tôi không còn nước mắt để khóc nữa”. Bà Đinh Thị Định (Hà Nam): “Chồng tôi mất đi để lại 3 đứa con điên dại cho một mình tôi chăm sóc. Có lúc 2 đứa con gái tập trung cấu xé, giày vò tôi, đứa ôm, đứa múa, thằng anh đứng ngoài nhìn như cuộc chơi đùa của những đứa trẻ. Tôi phải gọi hàng xóm sang giúp đỡ, chúng mới buông tha. Không biết trên đời này có mấy người đau khổ như tôi”.

Bà Ứng Thị Thanh Tâm (Hà Nội): “Tôi nuôi và chăm sóc hai đứa con khuyết tật, bị xã hội chê bai, dị nghị là nhà không có phúc nên đẻ con ra như vậy. Tôi buồn chán, bán nhà, bán đất cộng với số tiền làm ra chạy chữa cho con. Gia đình tôi rơi vào túng bấn. Chồng tôi dở điên dở dại, bệnh tật liên miên; hai đứa con đang sống như chết, vô cảm, không biết gì, ngày đêm không ngủ, cho ăn thì ăn, cho uống thì uống, cho thuốc ngủ thì mới ngủ. Nghèo khó đeo đẳng cả tuổi thanh xuân của tôi”.

Ông Đỗ Văn Út (Hậu Giang): “Suốt 36 năm qua, tôi lấy sức lao động làm ra đồng tiền để sinh sống. Tôi chỉ mong một điều duy nhất là vợ chồng tôi được khỏe mạnh để nuôi 2 đứa con dị tật không đi được, không tự chăm sóc được”.

Bà Đinh Thị Mỳ (Hà Nam): “Khó khăn về kinh tế, đau đớn day dứt về tinh thần, nhiều lúc cảm thấy bi đát, tủi phận, muốn thoát thân. Nhưng hình ảnh người chồng gầy gò, ốm yếu, những đứa con dị dạng không biết ai là bố, là mẹ của nó đã thôi thúc tôi chịu đựng chăm sóc nuôi dưỡng 4 nạn nhân chất độc da cam là chồng và các con tôi”...

Bà Bùi Thị Nhũn (Hải Phòng): “Tôi là người đứng mũi chịu sào trực tiếp phục vụ 3 con nằm liệt giường, chồng luôn ốm đau bệnh tật, không làm được việc gì, lúc tỉnh lúc mơ. 40 năm phục vụ chồng con là NNCĐDC, không có một ngày nào tôi được thảnh thơi nhàn hạ. Nhiều lúc rất buồn và tủi thân, nhà hàng xóm thì đầy ắp tiếng cười, còn nhà mình thì ngược lại”...

Và tất cả họ đều day dứt một nỗi đau, cùng câu hỏi lớn:“Khi chúng tôi về với tiên tổ, các con, cháu chúng tôi ở với với ai và ai nuôi...?”. Đó là lời nhắn gửi của những người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc da cam cho hiện tại và hậu thế!

Nguyễn Đình

Bình luận

Gửi bình luận
Bình luận

    Tin khác