• Quảng cáo: 0246.265.2654
Tiếng Việt
English
logo
ĐOÀN KẾT - NGHĨA TÌNH - TRÁCH NHIỆM - VÌ NẠN NHÂN CHẤT ĐỘC DA CAM

DA CAM - NỖI ĐAU VÀ SỰ CHIA SẺ

DA CAM - NỖI ĐAU VÀ SỰ CHIA SẺ

Lê Cường

60 năm nhức nhối nỗi đau

Có một thảm họa mà tác hại của nó đối với môi trường và sức khỏe con người không chỉ đo bằng những con số thống kê. Có một nỗi đau không chỉ đối với các nạn nhân mà còn là nỗi đau chung của cả dân tộc và nhân loại tiến bộ. Đó là thảm họa da cam, nỗi đau da cam - một thảm họa kinh hoàng, một nỗi đau xuyên thế kỷ.

Từ lúc nào người dân Việt Nam phải gánh chịu thảm họa khủng khiếp đó? Xin thưa, bắt đầu từ ngày 10/8/1961. Trong “ngày thứ năm đen tối” đó, quân đội Mỹ đã phun rải chất kịch độc, được ngụy trang bằng tên gọi “chất diệt cỏ, khai quang”, xuống miền Nam nước ta, mở đầu cuộc chiến tranh hóa học dài ngày nhất, có quy mô lớn nhất, gây hậu quả thảm khốc nhất trong lịch sử loài người.

Có thể nói, ngày 10/8/1961 là ngày ghi dấu tội ác hoành hành, sự dối trá lên ngôi, đánh dấu một chương cực kỳ bi thảm trong lịch sử chiến tranh ở Việt Nam. Suốt 10 năm liền (từ 1961 – 1971), khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học, 61% trong đó là chất da cam, chứa 366 kg dioxin - chất độc nhất trong các loại chất độc mà con người biết đến - đã được phun rải xuống gần ¼ diện tích miền Nam Việt Nam; làm cho 4,8 triệu người Việt Nam bị phơi nhiễm, hơn 3 triệu người là nạn nhân chất độc da cam.

Chiến tranh đã qua từ lâu nhưng thảm họa da cam, nỗi đau da cam vẫn đang hiện hữu trong rất nhiều gia đình trên mọi miền đất nước, từ thành thị sầm uất đến miền quê hẻo lánh, từ địa đầu phía Bắc đến đất mũi phương Nam.

Trên đất nước ta, nhiều gia đình có đến 8 nạn nhân như gia đình ông Phạm Văn Thành (Hà Tĩnh), gia đình ông Nguyễn Văn Quang (Cần Thơ)... Gia đình bà Đinh Thị Tự (Hà Nam) có 7 người thì 6 người là nạn nhân. Cá biệt, gia đình ông Đỗ Đức Địu (Quảng Bình) có tới 15 nạn nhân.

Nhiều gia đình cả 3 thế hệ đều là nạn nhân như gia đình bà Nguyễn Thị Ngừng (Hà Giang), gia đình ông Trần Kim Hải (Bà Rịa – Vũng Tàu), gia đình ông Vũ Ngọc Xuân (Lào Cai), gia đình bà Dương Thị Chăm (Quảng Ninh), gia đình bà Nguyễn Thị Lộc (Vĩnh Phúc), gia đình bà Võ Kim Hồng (Đồng Tháp)…

Nhiều gia đình chồng mất, để lại cho vợ những đứa con tàn tật, ngơ ngẩn, nằm một chỗ như gia đình bà Mai Thị Sự (Nam Định), gia đình bà Hoàng Thị Hằng (Thái Nguyên), gia đình bà Bùi Thị Mậu (Thái Bình), gia đình bà Lê Thị Luyến (Ninh Bình), gia đình bà Phạm Thị Nhi (Thái Nguyên)…

Có gia đình vợ mất, để chồng trong cảnh gà trống nuôi con như gia đình ông Nguyễn Hữu Hùng (Đà Nẵng)... Có gia đình con gái lấy chồng bị chồng bỏ, con trai lấy vợ, vợ cắp nón ra đi, để lại cho ông bà gánh nặng nuôi cháu nhỏ như gia đình bà Nguyễn Thị Là (Hà Nam)…

Những tâm sự nghẹn lòng

Bà Đặng Thị Hồng (Bình Thuận): “Chẳng có nỗi đau nào hơn nỗi đau của người phụ nữ khi sinh ra những đứa con không lành lặn. Thật khó đong đếm hết nỗi đau của người mẹ khi phải chứng kiến giọt máu của mình sinh ra với những hình hài, trí óc không trọn vẹn và những giọt nước mắt, nỗi đau ấy cứ kéo dài mãi mãi”.

Bà Trần Thị Châm (Thanh Hóa): “Ngày cũng như đêm, trong ngôi nhà nhỏ của gia đình tôi đáng lẽ phải đầy ắp tiếng cười nhưng lại chỉ có tiếng đập phá, gào thét của các con

Bà Nguyễn Thị Thanh (Tuyên Quang): “Ngày qua ngày, năm qua năm, cơm tôi ăn có chan hòa nước mắt, nước tôi uống có chát mặn mồ hôi”.

Bà Phạm Thị Lê (tỉnh Nam Định):“Trên 30 năm trời, tôi mong các con cất lời gọi mẹ, gọi cha mà không có, thay vào dó là tiếng la hét, kêu khóc, gào rú”.

Bà Hoàng Thị Thê (TP. Đà Nẵng): “Gần 30 năm, chưa một đêm được ngủ giấc trọn vẹn, chưa một ngày thong thả cho chính bản thân”.

Bà Tiêu Thị Thái (Hải Dương): “Sinh và nuôi con mà ruột đau như cắt. Nuôi con càng nhiều năm, gia cảnh càng nghèo, con càng thêm tuổi càng đau khổ. Không lúc nào vợ chồng tôi có nụ cười vui vẻ”.

Ông Lê Thành Đức (Quảng Bình): “Cha mẹ ru con suốt cả ngàn đêm trắng/ Lưng cha mẹ còng, nước mắt mẹ cạn vơi”.

Ông Nguyễn Văn Đệ (Bắc Giang): “Hàng ngày, tôi phải vật lộn với bệnh tật để sống, phải lao động sản xuất để khắc phục đói nghèo, nuôi chính bản thân mình, nuôi gia đình và còn phải sống hộ các con, từ những công việc đời thường nhỏ nhất, hết ngày này sang ngày khác, âm ỉ như lửa chiến tranh nóng bỏng suốt 30 năm nay. Tôi cảm thấy xót xa vì sinh con ra không được bằng bạn, bằng người, vất vả đau thương về thể xác, cay đắng đau khổ về tinh thần, nuôi mãi mà con không lớn, nợ không mòn”.

Bà Bùi Thị Mậu (Thái Bình): “Anh đã mang đi tất cả những năm tháng trong Quân đội, không để lại gì mà chỉ để lại những đứa con tật nguyền, điên dại và tấm Huân chương Kháng chiến”.

Nguyễn Đại Số (Quảng Ninh): “Ngoài chăm sóc việc ăn uống, tắm giặt, tôi còn phải canh chừng các con đập phá hoặc bỏ nhà ra đi; phải chằng buộc mọi thứ trong nhà, từ bàn thờ tổ tiên đến điện thoại, kể cả nắp đậy bồn vệ sinh và khóa tất cả mọi thứ chạn bát, nơi để dao kéo, đồ dùng nấu ăn, bể nước. Tôi phải dùng tới 26 cái khóa. Mọi đồ dùng trong nhà đều bằng nhựa”.

Ông Bùi Công Thuận (Thành phố Hồ Chí Minh): “Tại sao tôi phải dùng dây dù hoặc xích sắt trói con mình lại? Trên thế giới này có ai giống tôi không? Nghĩ đời cũng lạ. Tham gia kháng chiến đến ngày giải phóng không việc gì, sang chiến đấu ở Campuchia 3 năm giúp Bạn không việc gì. Bây giờ bị con bệnh tâm thần đánh cho mù mắt là do đâu? Chỉ có người trong cuộc mới thấu hiểu cảm xúc của người cha khi chính tay mình cầm dây trói tay chân đứa con mình hết sức yêu thương”.

Anh Dương Toàn Thắng – tỉnh Bình Định: “Hầu như gia đình tôi quanh năm ngày tháng không có tiếng cười, chỉ có tiếng thở dài và nước mắt; và bây giờ tôi không còn nước mắt để khóc nữa”.

Bà Đinh Thị Định (Hà Nam): “Chồng tôi mất đi để lại 3 đứa con điên dại cho một mình tôi chăm sóc. Có lúc 2 đứa con gái tập trung cấu xé, giày vò tôi, đứa ôm, đứa múa, thằng anh đứng ngoài nhìn như cuộc chơi đùa của những đứa trẻ. Tôi phải gọi hàng xóm sang giúp đỡ, chúng mới buông tha. Không biết trên đời này có mấy người đau khổ như tôi”.

Bà Ứng Thị Thanh Tâm (Hà Nội): “Tôi nuôi và chăm sóc hai đứa con khuyết tật, bị xã hội chê bai, dị nghị là nhà không có phúc nê đẻ con ra như vậy. Tôi buồn chán, bán nhà, bán đất cộng với số tiền làm ra chạy chữa cho con. Gia đình tôi rơi vào túng bấn. Chồng tôi dở điên dở dại, bệnh tật liên miên; hai đứa con đang sống như chết, vô cảm, không biết gì, ngày đêm không ngủ, cho ăn thì ăn, cho uống thì uống, cho thuốc ngủ thì mới ngủ. Nghèo khó đeo đẳng cả tuổi thanh xuân của tôi”.

Ông Đỗ Văn Út (Hậu Giang): “Suốt 36 năm qua, tôi lấy sức lao động làm ra đồng tiền để sinh sống. Tôi chỉ mong một điều duy nhất là vọ chồng tôi được khỏe mạnh để nuôi 2 đứa con dị tật không đi được, không tự chăm sóc, nói chuyện khó nghe, nằm tại chỗ”.

Bà Đinh Thị Mỳ (Hà Nam): “Khó khăn về kinh tế, đau đớn day dứt về tinh thần, nhiều lúc cảm thấy bi đát, tủi phận, muốn thoát thân. Nhưng hình ảnh người chồng gầy gò, ốm yếu, những đứa con dị dạng không biết ai là bố, là mẹ của nó đã thôi thúc tôi chịu đựng chăm sóc nuôi dưỡng 4 nạn nhân chất độc da cam là chồng và các con tôi”...

Bà Bùi Thị Nhũn (Hải Phòng): “Tôi là người đứng mũi chịu sào trực tiếp phục vụ 3 con nằm liệt giường, chồng luôn ốm đau bệnh tật, không làm được việc gì, lúc tỉnh lúc mơ. Nỗi cực nhọc ngoài sức chịu đựng của một phụ nữ yếu ớt như tôi. Nhiều lúc gục ngã, song tôi vẫn phải gượng dậy nuôi con, chăm chồng. Bốn mươi năm phục vụ chồng con Là nạn nhân chất độc da cam, không có một ngày nào tôi được thảnh thơi nhàn hạ. Nhiều lúc rất buồn và tủi thân, nhà hàng xóm thì đầy ắp tiếng cười, còn nhà mình thì ngược lại”...

Vươn lên trong đau khổ

Không đầu hàng số phận, không cam chịu đói nghèo, nhiều gia đình đã mạnh dạn vay vốn, chủ động tổ chức lại sản xuất, phát triển kinh tế như bà Trần Thị Tình (Phú Thọ), ông Ngô Hồng Phái (Đăk Lắc), bà Phạm Thị Loan (Yên Bái), ông Nguyễn Trọng Hợp (Thái Nguyên), ông Lường Văn Lả (Điện Biên), ông Đoàn Công Hậu (Trà Vinh), ông Nguyễn Xuân Hòa (Quảng Bình), ông Lê Xuân Khương (Thanh Hóa), ông Lại Đức Thành (Hà Nam), ông Hoàng Quang Minh (Lạng Sơn), ông Diêm Trọng Thách (Bắc Ninh), ông Lê Minh Hậu (Cà Mau), ông Nguyễn Văn Nhượng (Quảng Ninh), ông Trương Văn Phấn (Bắc Cạn), ông Trần Như Vũ (Hà Nam), ông Nguyễn Văn Hùng (Nghệ an), ông Tô Văn Phèn (Trà Vinh)...

Nhiều người đã vượt khó vươn lên một cách đáng tự hào như anh Chu Quang Đức (Hà Nội), chị Đỗ Thị Khuyên (Tiền Giang), chị Huỳnh Thanh Thảo (Tp. Hồ Chí Minh), chị Đậu Thị Nga (Nghệ An), anh Nguyễn Văn Hùng (Hà Nam), anh Dương Tiến Lâm (Đắk Nông), chị Nguyễn Thị Hiền (Đồng Nai), anh Nguyễn Thanh Bình (Thái Bình), anh Lê Minh Thái (Tây Ninh), anh Lê Văn Trung (Quảng Trị)chị Nguyễn Minh Thuận (Cần Thơ), chị Võ Thị Yến Nhi (Tây Ninh), anh Vũ Kim Xuân Đào (An Giang), anh Cao Đức Vương (Hải Phòng)…

Ngoài việc chăm sóc con cháu tật nguyền, chăm lo đời sống gia đình, nhiều người còn tích cực tham gia công tác xã hội, đảm nhiệm chức vụ Bí thư, Phó Bí thư chi bộ, Chủ tịch Hội Nông dân,Trưởng ban Công tác mặt trận, Tổ trưởng hòa giải, tham gia Ban Chấp hành Hội Cựu chiến binh, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin các cấp như ông Phạm Văn Thành (Hà Tĩnh), ông Vũ Ngọc Xuân (Lào Cai), ông Hoàng Văn Hưởng (Lâm Đồng), bà Nguyễn Thị Hồng (Long An)…

Nhiều người đã chăm sóc, nuôi dưỡng con khôn lớn, động viên con mình chăm lo học tập, nỗ lực vươn lên và đã đạt dược kết quả tốt đẹp như bà Phạm Thị Gái, bà Hoàng Thị Xuân (Đồng Nai), bà Vũ Thị Mậu (Gia Lai)…

Chia sẻ nỗi đau da cam

Thấm nhuần đạo lý, truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc, hưởng ứng phong trào “Hành động vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam” do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động, rất nhiều tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đã kề vai sát cánh với Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin các cấp trong hành trình nhân ái vì nạn nhân chất độc da cam. Và Ngày 10/8 đã trở thành điểm hẹn của những nghĩa cử cao đẹp, những tấm lòng cao cả.

Trao tặng nhà tình nghĩa cho NNCĐDC ở Bắc Giang năm 2019

Quý hóa biết bao, những tổ chức đã dành cho nạn nhân sự ủng hộ to lớn, hiệu quả như: Bộ Ngoại giao, Tập đoàn Công nghiệp và Viễn thông Quân đội, Ngân hàng TMCP Quân đội, Hội Cựu chiến binh Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Quân chủng Hải quân, Tổng Công ty Điện lực Miền Bắc, Hội Cựu chiến binh Công ty Đường Quảng Ngãi, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Công ty CP Dược phẩm ECO, Công ty CP Dịch vụ Thông tin Quảng cáo An Phát, Tổ chức Mennonite Central Committee – Mỹ (MCC) tại Việt Nam, Tổ chức Viện trợ về Y tế và Khoa học cho Việt Nam, Lào và Campuchia, Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, Tổ chức Những người Nhật Bản yêu Việt Nam, Tổ chức POURLES ENFANTS DES RIZIERES (APER PHÁP), Công ty liên doanh Vũng Tàu PARADISE, Tập đoàn Truyền thông IMC, Hội Da cam Việt Nam của Hàn Quốc (KAOVA), Quỹ D.K. Kim Hàn Quốc, Công ty CP Nông Nghiệp Quốc Tế (ANCO), Câu lạc bộ phụ nữ Quốc tế Hà Nội, Công ty TNHH MTV Khai thác và Chế biến đá An Giang…

Trân trọng biết mấy, những tấm lòng cao cả vì nạn nhân chất độc da cam, tiêu biểu như: GS, BS, TTND, AHLĐ Nguyễn Thị Ngọc Phượng; cố GS, NGND, AHLĐ Trần Văn Giàu; cố GS Võ Quý; GS, TSKH, NGND Phương Lựu (Bùi Văn Ba); Lương y Nguyễn Văn Thiệu (Thái Bình); cụ Phạm Văn Xương, bà Trần Thị Hiền (Hải Phòng); ông Nguyễn Tấn Danh ( An Giang); bà Võ Thị Hảo (Bến Tre); cụ Đỗ Thế Luân, ông Cao Quang Hiệp, ông Tô Hữu Thắng, bà Trịnh Thị Liên (Hà Nội); Đại tá Lâm Quang Minh (Đà Nẵng); ông Phan Thừa Nhơn (Cà Mau); bà Đặng Thị Tầm (Đắk Nông); ông Phạm Văn Chiến (Lào Cai); bà Trương Thị Mai (Quảng Trị); ông Trương Trọng Phổ (Thanh Hóa); bà Nguyễn Thị Ánh Thu, Ni sư Thích nữ Tuyết Liên (Tiền Giang); bà Lê Thị Kim Huệ (Kiên Giang); Nhà văn, Đạo diễn Cao cấp, Nghệ sĩ Ưu tú Minh Chuyên; bà Lê Thị Thanh Thủy, Giám đốc Ngân hàng TMCP Xăng Dầu PETROLIMEX, Ni sư Thích Diệu Nhân (Ninh Bình), bà Masako Sakata (Nhật Bản); bà Maggie Brooks (Costa Rica); ông Mike Rehner, ông Jeff Slyker (Hoa Kỳ); cố Tổng Thư ký Hội Hữu nghị Anh – Việt Len Aldis; nguyên Chủ tịch Hội Luật gia Dân chủ Quốc tế Jitendra Sharma; đồng Chủ tịch VAORC Merle Evelyn Ratner; Chủ tịch Hội Luật gia Dân chủ Quốc tế Jeanne Ellen Mier…

Ngưỡng mộ biết chừng nào những tấm lòng bao dung, vị tha, thể hiện sâu sắc tình thương yêu con người và trách nhiệm xã hội cao quý. Đó là Ni trưởng Thích Diệu Nghĩa (Tây Ninh), Đại đức Thích Như Tiến (Quảng Ngãi), Lương y Nguyễn Văn Thiệu, bà Trương Thị Nở (Thái Bình), bà Nguyễn Thị Tiên (Bến Tre), bà Khổng Thị Thúy (Bắc Giang), vợ chồng ông John Paul Bucher và bà Esther H. Bucher, Tình nguyện viên vật lý trị liệu ở Trung tâm Nuôi dưỡng phục hồi chức năng nạn nhân chất độc da cam huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi…

Không thể không nhắc tên Bác sĩ Đặng Thị Tầm, nguyên Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin tỉnh Đắk Nông. Trước khi nghỉ hưu, bà Tầm đã nuôi 4 cháu mồ côi ăn học hết phổ thông đến trung cấp nghề và đã có việc làm ổn định. Từ năm 2013, gia đình bà Tầm đã hiến đất, tặng tiền, trợ giúp phương tiện, tạo việc làm cho 4 nạn nhân chất độc da cam khác.

Không thể không nói đến ông Nguyễn Văn Phú ở tỉnh Vĩnh Long. Ông Phú gặp bà Lê Thị Hai trong lúc chồng bà Hai bỏ đi, để lại 2 đứa con bị di chứng chất độc da cam. Đồng cảm với nỗi đau và sự khó nhọc của bà Hai, suốt hơn 30 năm qua, ông Phú đã tự nguyện về chung sống và chăm sóc 2 cháu bị tật nguyền, nằm co quắp chân tay, không biết nói, không biết cảm giác, không tự chủ được bản thân, coi các cháu như chính con đẻ của mình.

Kỷ niệm 60 năm Thảm họa da cam ở Việt Nam là dịp để khơi dậy lương tâm và trách nhiệm của cộng đồng xã hội đối với nạn nhân chất độc da cam; cổ vũ, lan tỏa tinh thần “Thương người như thể thương thân”, để “Không ai bị bỏ lại phía sau”, biến nhận thức của mỗi người thành hành động cụ thể, thiết thực giúp đỡ nạn nhân vượt lên chính mình, tiếp thêm cho họ niềm tin và tình yêu cuộc sống, khát vọng và ý chí vươn lên hòa nhập cộng đồng./.

Bình luận

Gửi bình luận
Bình luận

    Tin khác